Bức tranh nông nghiệp, nông thôn tỉnh Ninh Thuận: Nhiều chuyển biến tích cực và toàn diện

|

Bức tranh nông nghiệp, nông thôn tỉnh Ninh Thuận: Nhiều chuyển biến tích cực và toàn diện

 Kết quả Điều tra nô;ng thô;n, nô;ng nghiệp giữa kỳ năm 2020 cung cấp bức tranh toàn cảnh về kinh tế - xã hội nô;ng thô;n và sản xuất nô;ng, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2016-2020 với những chuyển biến tích cực và khá toàn diện, đạt nhiều thành tựu nổi bật.
 
Kết cấu hạ tầng nô;ng thô;n tiếp tục được nâng cấp và hoàn thiện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển; bộ mặt nô;ng thô;n có nhiều đổi mới

Trong 5 năm (2016 - 2020), các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương đã triển khai có hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nô;ng thô;n. Bộ mặt nô;ng thô;n có sự biến đổi sâu sắc, nhất là kết cấu hạ tầng. Hầu hết các cơ sở hạ tầng quan trọng như hệ thống điện, giao thô;ng, trường học, trạm y tế, thiết chế văn hóa, hệ thống bảo vệ mô;i trường của xã, thô;n đã được tăng cường.

Hệ thống mạng lưới điện đến các xã đã được đầu tư mở rộng đạt được những kết quả đáng khích lệ

Một trong những nội dung quan trọng hàng đầu của cô;ng nghiệp hoá, hiện đại hoá nô;ng nghiệp, nô;ng thô;n là điện khí hoá. Toàn tỉnh có 100% số xã và thô;n đã có điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ nô;ng thô;n sử dụng điện đạt 99,93%, sau 5 năm tỷ lệ hộ sử dụng điện tăng thêm 0,58%. Như vậy, đến năm 2020, ở khu vực nô;ng thô;n chỉ còn 0,07% số hộ chưa sử dụng điện. Điện khí hóa đã làm thay đ??i bộ mặt nô;ng thô;n, đảm bảo trật tự an ninh quốc phòng, tạo tiền đề phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nô;ng dân nô;ng thô;n. Đồng thời cũng góp phần thay đ??i cơ cấu cây trồng, thay đ??i tập quán và quy mô; canh tác, chuyển dịch cơ cấu phát triển kinh tế và tăng thu nhập cho các hộ dân nô;ng thô;n.

Đây là một nội dung quan trọng trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của Chính phủ nhằm cải thiện điều kiện đời sống, sức khỏe, phát triển sản xuất và cung cấp dịch vụ tốt hơn cho nô;ng thô;n, góp phần thu hẹp khoảng cách và sự bất bình đẳng giàu - nghèo giữa nô;ng thô;n và thành thị.

Hệ thống hạ tầng giao thô;ng nô;ng thô;n tiếp tục có bước phát triển về số lượng và nâng cấp về chất lượng

Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nô;ng thô;n mới, trong đó cô;ng tác phát triển giao thô;ng nô;ng thô;n trên địa bàn tỉnh đạt kết quả khá toàn diện, kết cấu hạ tầng giao thô;ng ngày được phát triển, nhiều cô;ng trình giao thô;ng nô;ng thô;n được xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp và được thực hiện bảo trì thường xuyên; tăng tỷ lệ cứng hóa các loại đường giao thô;ng nô;ng thô;n; đồng thời phát huy tốt các hình thức xã hội hóa và sự đóng góp của nhân dân trong xây dựng và bảo trì cô;ng trình giao thô;ng nô;ng thô;n góp phần tích cực tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nhà đầu tư về khu vực nô;ng thô;n, tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo và giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế -xã hội khác.

Trụ sở UBND các xã được xây dựng tại những nơi thích hợp thuận lợi cho người dân trong việc liên hệ, kết nối với chính quyền địa phương. Có 100% số xã có đường xe ô; tô; đến trụ sở UBND xã đi được quanh năm và được nhựa, bê tô;ng hóa đạt 95,74% do xây dựng ở nơi mới chưa hoàn chỉnh đường giao thô;ng. Hệ thống giao thô;ng đến cấp thô;n được chú trọng phát triển mạnh với 99,22% số thô;n ô; tô; có thể đi đến trụ sở UBND xã.

Hệ thống giao thô;ng đường trục xã được quan tâm phát triển, với 97,87% số xã có đường trục xã được rải nhựa/ bê tô;ng hóa; trong đó xã có đường trục xã được rải nhựa/ bê tô;ng hóa đạt 100% là 38 xã, chiếm 80,85% tổng số xã, tăng 8 xã so với 5 năm trước. Có 46 xã có đường trục thô;n được rải nhựa/ bê tô;ng hóa, chiếm 97,87% tổng số xã, tăng 2 xã so 5 năm trước; trong đó số xã có đường trục thô;n được rải nhựa/ bê tô;ng hóa đạt 100% là 26 xã, chiếm 55,32% tổng số xã, tăng 2,16 lần so với 5 năm trước. Số thô;n có đường ô; tô; đi đến được là 255 thô;n, chiếm 99,22% số thô;n trong tỉnh. Cơ sở hạ tầng giao thô;ng được đầu tư mở rộng cả về bề rộng và chiều sâu là điều kiện hết sức thuận lợi phục vụ sản xuất nô;ng nghiệp, dịch vụ và sinh hoạt của cư dân nô;ng thô;n, xây dựng nô;ng thô;n mới.

Hệ thống trường, lớp mầm non và giáo dục phổ thô;ng ở nô;ng thô;n được nâng cấp, chất lượng dạy và học nâng lên đáng kể

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục của Nhà nước, hệ thống trường học các cấp ở nô;ng thô;n đã được xây dựng mới, nâng cấp, cải thiện cơ sở vật chất góp phần mang lại cơ hội tiếp cận giáo dục có chất lượng đối với học sinh khu vực nô;ng thô;n.

100% số xã có trường tiểu học (tổng số 106 trường) và 44 xã (chiếm 93,6%) có trường trung học cơ sở (tổng số 47 trường). Tổng số trường trung học phổ thô;ng trên địa bàn nô;ng thô;n có 47 trường ở 8 xã. Trường mẫu giáo/mầm non được xây dựng kiên cố, bán kiên cố với 51 trường, trong đó 27 trường thuộc xã miền núi. Các trường mẫu giáo/mầm non cùng với 106 điểm trường trên địa bàn các xã đã góp phần đáp ứng nhu cầu đến trường của trẻ em và hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em trên địa bàn nô;ng thô;n.

Hệ thống trường học được đảm bảo ở toàn bộ các xã, đã tạo điều kiện thuận lợi để học sinh khô;ng phải đi học xa, góp phần giảm tình trạng học sinh bỏ học, nhất là các xã ?? vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Hệ thống thiết chế văn hóa được bổ sung hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, tiếp cận thô;ng tin của dân cư nô;ng thô;n

Tại thời điểm 01/7/2021, Ninh Thuận có 42 xã có nhà văn hóa xã/ hội trường đa năng, chiếm 89,36% tổng số xã, tăng 2,2 lần so với năm 2016; có 15 xã (chiếm 31,91%) có bưu cục xã, giảm 10,64% điểm phần trăm so năm 2016; 31 xã (chiếm 65,96%) có điểm bưu điện văn hóa xã, giảm 2,13% điểm phần trăm so năm 2016, cho thấy hiệu quả hoạt động của các trạm bưu điện xã và điểm bưu điện văn hóa xã ?? một số nơi còn thấp, chưa chú trọng đầu tư nâng cấp. Ngoài ra 242 thô;n có nhà văn hóa/ nhà sinh hoạt cộng đồng, chiếm 94,16% tổng số thô;n, tăng 28 điểm phần trăm so với năm 2016; 167 thô;n có có khu thể thao thô;n/nơi sinh hoạt văn hóa thể thao, chiếm 64,98% tổng số thô;n, tăng 26,8 điểm phần trăm so với năm 2016, đã khẳng định chính quyền địa phương các cấp của tỉnh bước đầu đáp ứng được nhu cầu thiết yếu về văn hóa đọc cho người dân ở khu vực nô;ng thô;n.

100% xã trên địa bàn tỉnh đã được lắp đặt hệ thống loa truyền thanh (năm 2016 đạt 87,23%), với 254 thô;n chiếm 98,83% số thô;n toàn tỉnh có hệ thống loa truyền thanh, tăng 22,95 điểm phầm trăm so năm 2016. Đến nay, hệ thống này vẫn đang được duy trì và vận hành hiệu quả, phát huy tốt việc tuyên truyền các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, cung cấp kịp thời những thô;ng tin về tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng nô;ng thô;n mới cũng như là các biện pháp để phòng, chống dịch bệnh...

Khô;ng chỉ phát triển cấp xã, các điểm văn hóa thể thao còn được xây dựng ở cấp thô;n. Đến năm 2020, có 94,16% số thô;n có nhà văn hóa thô;n (năm 2016 là 66,15%); 64,98 số thô;n có khu thể thao thô;n (năm 2016 đạt 38,13%); góp phần tăng số thô;n được cô;ng nhận thô;n văn hóa năm 2020 lên 232 thô;n, chiếm 90,27%, tăng 18,29 điểm phầm trăm so với năm 2016. Nhìn chung, hệ thống thô;ng tin, bưu chính viễn thô;ng và văn hoá ở nô;ng thô;n đã có sự phát triển qua các năm, góp phần nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân.

Hệ thống y tế được tăng cường, quan tâm đầu tư đạt được những kết quả đáng khích lệ

Hệ thống trạm y tế xã tiếp tục được đầu tư nâng cấp toàn diện cả về số lượng và chất lượng, trình độ chuyên mô;n của đội ngũ y, bác sĩ cũng như cơ sở vật chất. Năm 2020, có 95,74% xã có trạm y tế, giảm 2 trạm do 2 xã có Trung tâm y tế huyện nên khô;ng có trạm y tế xã, tỷ lệ trạm y tế được xây dựng kiên cố hiện nay đạt 64,44% (năm 2016 đạt 51,05%); bán kiên cố đạt 35,56% (năm 2016 đạt 48,94%). Đến thời điểm 01/7/2020 có 21 bác sĩ đang làm việc tại các trạm y tế xã, giảm 12,5% (giảm 3 người) so với thời điểm 01/7/2016; số bác sĩ trên 1 vạn dân nô;ng thô;n đạt 0,52 bác sĩ/ vạn dân (năm 2016 đạt 0,66).

Những năm qua hệ thống y tế cơ sở, trong đó y tế xã đóng vai trò nòng cốt, đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện các chỉ số sức khoẻ, tăng cường tiếp cận của người dân tới dịch vụ y tế chất lượng, giúp người dân tin tưởng và đến khám, chữa bệnh ban đầu tại hệ thống y tế cơ sở, giúp giảm tải bệnh viện tuyến trên đồng thời giảm chi phí y tế cho người dân. Năm 2020 có 40 xã (chiếm 85,11%) được cô;ng nhận đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã (tăng 17 xã so năm 2016); 23,4% số xã có cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân trên địa bàn; 82,98% số xã có số cơ sở kinh doanh y dược đã phục vụ và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng nô;ng thô;n tốt hơn.

Hạ tầng vệ sinh mô;i trường nô;ng thô;n có những mặt được cải thiện

Việc cung cấp nước sạch, nước sinh hoạt cho khu vực nô;ng thô;n từng bước nâng cao chất lượng với việc kết nối cung cấp nước sạch từ nhà máy đến các xã tăng dần qua các năm, góp phần quan trọng trong nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ sức khỏe của cư dân nô;ng thô;n. Đến thời điểm 01/7/2020, khu vực nô;ng thô;n có 48,94% số xã có cô;ng trình cấp nước sinh hoạt tập trung (năm 2016 chiếm 31,91%); có hơn 99,7 nghìn hộ (chiếm 97,11%) được sử dụng nước máy, tăng mạnh so với 5 năm trước (năm 2016 có hơn 77,2 nghìn hộ, tương đương 79,51% số hộ được sử dụng nước máy).

Vệ sinh mô;i trường từng bước được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chỉ có 4,26% số xã có xây hệ thống thoát nước thải chung, tăng 2,13 điểm phần trăm so năm 2016; có 4,28% số thô;n có hệ thống thoát nước thải chung (năm 2016 là 0,78%). Tuy tỷ lệ xã đã xây dựng được hệ thống thoát nước thải chung chưa cao, nhưng đó là một tiến bộ bước đầu quan trọng trong chuyển biến nhận thức và hành động của các cấp, các ngành cũng như các hộ gia đình nô;ng thô;n về bảo vệ mô;i trường qua xử lý nước thải.

Các hoạt động thu gom rác thải sinh hoạt trên địa bàn nô;ng thô;n những năm gần đây được nhiều địa phương quan tâm, thể hiện việc thu gom rác thải ở các xã đã có nhiều tiến bộ hơn. Đến năm 2020, toàn tỉnh đã có 80,85% số xã có tổ chức thu gom rác thải (năm 2016 là 70,21%); đối với thô;n tỷ lệ này đạt 76,65% (năm 2016 là 65,76%) số thô;n.

Dịch vụ hỗ trợ kinh tế nô;ng thô;n và kinh tế phi nô;ng nghiệp có bước phát triển mới

Tại thời điểm 01/7/2020, cả tỉnh có 8 xã có ngân hàng, chi nhánh ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân hoạt động, chiếm 17,02% tổng số xã trên địa bàn nô;ng thô;n, hệ thống tín dụng, ngân hàng nô;ng thô;n thực sự là nguồn cung ứng vốn quan trọng hỗ trợ kinh tế - xã hội nô;ng thô;n phát triển.

Chợ nô;ng thô;n có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế hàng hoá, kích thích trao đổi hàng hoá giữa các vùng và trong nội bộ dân cư trên địa bàn. Tính đến 01/7/2020, toàn tỉnh có 37 xã có chợ, chiếm 78,72% số xã, trong đó tỉ lệ xã miền núi chiếm 44,44%; chợ xây dựng từ bán kiên cố đến kiên cố chiếm 77% số chợ. Có 76,6% số xã có chợ hàng ngày với 83 chợ, bình quân 2,24 chợ/ xã có chợ hàng ngày (tỉ lệ ở miền núi là 1,76 chợ hàng ngày/xã có chợ hàng ngày). Hệ thống chợ phiên, chợ hàng ngày đã giúp người dân có điều kiện thuận lợi hơn để trao đổi hàng hoá và giao lưu văn hoá với các xã từ miền núi với đồng bằng, góp phần phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá, tinh thần, xây dựng nô;ng thô;n mới.

Tỷ trọng kinh tế phi nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản trong cơ cấu kinh tế nô;ng thô;n tiếp tục có xu hướng tăng

Tỷ trọng kinh tế phi nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản trong kinh tế nô;ng thô;n có xu hướng gia tăng, thể hiện rõ nhất ở tỷ trọng cơ cấu hộ nô;ng thô;n. Tại thời điểm 01/7/2020, khu vực nô;ng thô;n có 49.567 hộ phi nô;ng, lâm nghiệp, thủy sản, chiếm 48,24% tổng số hộ nô;ng thô;n, tăng 7,56 điểm phầm trăm so với năm 2016. Xu hướng tăng dần tỷ trọng kinh tế phi nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản cũng được thể hiện trong cơ cấu hộ nô;ng thô;n phân theo nguồn thu nhập lớn nhất. Theo kết quả điều tra, tỷ trọng hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ các ngành phi nô;ng, lâm nghiệp, thủy sản chiếm trong tổng số hộ nô;ng thô;n của toàn tỉnh tăng từ 41,74% năm 2016 lên 52,76% năm 2020.

Thực hiện các chính sách an sinh xã hội

Xác định rõ vai trò, vị trí của nô;ng nghiệp, nô;ng dân, nô;ng thô;n đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhiều chính sách đã được ban hành, như: Hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà; vay vốn ưu đãi; đào tạo nghề cho lao động nô;ng thô;n; hỗ trợ tạo việc làm, dịch vụ việc làm; bảo hiểm xã hội tự nguyện; các chính sách về an toàn, vệ sinh lao động… đã góp phần tạo động lực ổn định chính trị - xã hội, xây dựng nô;ng thô;n mới phát triển bền vững.

Cô;ng tác đào tạo nghề, hỗ trợ tạo việc làm cho lao động nô;ng thô;n được các cấp chính quyền quan tâm, trong năm 2019 có trên 6, nghìn lượt người được tham gia các lớp tập huấn, trong đó có gần 6,5 nghìn lượt người được tập huấn về kiến thức, kỹ thuật trong hoạt động nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản. Tuy nhiên đối với cô;ng tác đào tạo nghề, hỗ trợ tạo việc làm cho lao động nô;ng thô;n hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như: nhận thức về việc làm, dạy nghề ở một số địa phương vẫn chưa được quan tâm đúng mức, ngành nghề đào tạo chưa đa dạng, nguồn ngân sách còn hạn chế, thực hiện chương trình việc làm, dạy nghề ở một số địa phương còn thiếu tính cụ thể, giải quyết việc làm cho lao động chuyển đổi nghề sau đào tạo còn nhiều khó khăn...
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nô;ng thô;n mới triển khai rộng khắp, đạt kết quả quan trọng
Bộ mặt nô;ng thô;n tỉnh Ninh Thuận những năm gần đây đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Đến hết năm 2020, kết quả thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng Nô;ng thô;n mới trên địa bàn tỉnh đạt được khá toàn diện. Các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nô;ng thô;n mới, đô; thị văn minh” Cả nước chung tay vì người nghèo - Khô;ng để ai bị bỏ lại phía sau”, “Xây dựng gia đình 5 khô;ng 3 sạch” và các phong trào thi đua “Toàn dân chung sức xây dựng NTM”, “Tuổi trẻ Ninh Thuận chung tay xây dựng NTM”,… và các hội thi đã tạo sức lan tỏa, thực sự có ý nghĩa và được người dân đồng tình hưởng ứng. Đến hết năm 2020, toàn tỉnh đã có 27 xã đạt chuẩn nô;ng thô;n mới, chiếm 57,45% số xã; có 02 huyện đạt chuẩn nô;ng thô;n mới (Ninh Phước và Ninh Hải), đạt 100% kế hoạch.

Kết cấu hạ tầng tiếp tục được tập trung đầu tư, nâng cấp góp phần thay đ??i diện mạo nô;ng thô;n, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân khu vực nô;ng thô;n. Phát triển sản xuất có nhiều điểm mới, nổi bật, thu hút được nhiều loại hình kinh tế đầu tư vào vùng sản xuất hàng hóa tập trung, liên kết theo chuỗi giá trị; ứng dụng khoa học cô;ng nghệ, đặc biệt là ứng dụng cô;ng nghệ cao bước đầu đã đem lại hiệu quả; thực hiện cô;ng tác dồn điền, đổi thửa, cánh đồng mẫu đạt kết quả cao góp phần thay đ??i cách thức sản xuất... Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) được tập trung thực hiện, các tổ chức, cá nhân dần quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu, truy xuất nguồn gốc để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.

Đời sống người dân khu vực nô;ng thô;n ngày càng được cải thiện, thu nhập, điều kiện và mức sống được nâng lên, an sinh xã hội được quan tâm; văn hóa, giáo dục, y tế và mô;i trường từng bước nâng cao chất lượng; hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố, an ninh trật tự được giữ vững... đã góp phần phát triển kinh tế - xã hội khu vực nô;ng thô;n.

Huy đ??ng nguồn lực đạt kết quả cao, tỷ lệ vốn đối ứng từ ngân sách địa phương so với ngân sách Trung ương vượt so với quy đ??nh, cơ bản nợ đọng xây dựng nô;ng thô;n mới đã được xử lý. Hệ thống cơ chế chính sách được ban hành đồng bộ đã tạo thuận lợi cho các địa phương thực hiện, thu hút đầu tư và huy đ??ng được nội lực rất lớn trong nhân dân.
Minh Hà
Ứng dụng giải trí Tikigoti